Năm 1977, từ trại cải tạo về, nhớ bạn bè, nhớ học trò, nhớ bảng đen phấn trắng, một hôm tôi vào thăm Trường, tôi đã gặp lại nhiều người như ông Phan Kim Báu, Phạm Văn Tài, Lâm Văn Trân, Trần Văn Sáng, Nguyễn Văn Phấn,Lê Kim Nghĩa và một số giáo sư cũ vẫn còn dạy như Vũ Duy Thuận, Phan Đình Du, Nguyễn Anh Dõng, Giảng Huệ Thắng, Nguyễn Ngọc Thượng, Lê Tha, Bùi Danh Dinh … một số giáo sư Trường Phan Đình Phùng nhập vào, ở Xưởng các giáo sư phân chia thành nhóm theo Xưởng như cũ, còn ở lớp giáo sư nay được gọi là giáo viên, chia thành ra Ban bệ, có Trưởng Ban để quản lý giáo viên dưới quyền, tổ chức điều hành có Ban Giám Hiệu gồm Hiệu Trưởng, Hiệu Phó, dưới có các Phòng, như Phòng Tổ chức, Phòng Hành Chánh, Phòng Giáo Vụ, Phòng Quản Lý Học Sinh, Phòng Y Tế, tất cả đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Trường, lãnh đạo là Bi Thư Chi Bộ. Còn học sinh, sinh hoạt theo Đoàn Thanh Niên của Trường, lãnh đạo là Bí Thư Chi Đoàn.
Thầy Khưu Văn Triệu có anh đi Tập kết, nên được bão lãnh về sớm, xin vào dạy lại tại Trường, thầy Hồ Ngọc Thu có chú họ là Hồ Ngọc Cứ, Dân Biểu Quốc hội, có biệt danh là ông Nghị Nhà Lá, đứng trong hàng ngũ Thành phần thứ ba, hoặc thiên cộng như Ngô Công Đức, Lý Quý Chung… nên lãnh giáo sư Thu về sớm và cũng xin được dạy tại Trường.
Cũng còn nhiều Thầy giáo vẫn con đang trong trại cải tạo như Thầy Vũ Hữu Quyến, Thầy Nguyễn Thái Hòa, Thầy Hà Mộng Giao, Thầy Đặng Vĩnh Thanh, Thầy Phạm Hữu Giỏi …
Thầy Phấn là Trưởng phòng Giáo vụ, biết tôi đã về trước khi vào thăm Trường, chỗ thân tình anh nói với tôi:
- Anh nên tìm một chỗ nào khác, không nên xin vào Trường!
Đúng ra, tôi vẫn chưa biết mình sẽ xin việc ở đâu, tôi còn đang nghĩ: Nếu được nghỉ ngơi một vài tháng thì tốt hơn.
Nhớ lại, hồi trong trại Học Tập Cải Tạo, có những anh cao kiến, khuyên nhũ anh em:
- Tướng Trung Hoa Dân Quốc (Lư Hán ?), bị Trung Cộng cầm tù mấy chục năm chưa thả, nhiều người Việt Nam trước đây trong quân đội Pháp chỉ là Trung sĩ, vậy mà cho đến nay vẫn còn bị quản chế, cho nên chúng ta ai được về, ráng bám Sàigòn mà sống, dầu sao nó cũng là “bộ mặt quốc tế”, Cộng sản sẽ phải nới tay một chút.
Vì lẽ đó, nếu Thầy Phấn không khuyên, có thể sau thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức, tôi cũng xin vào dạy tại Trường, vì nơi đó tôi có bạn bè, bảng đen phấn trắng nghề tôi yêu thích.
Tôi cũng thuộc loại được về sớm, được bảo lãnh. Nếu không có mặt trận phía Tây của Pôn Pốt tấn công Việt Nam dọc theo biên giới từ Tây Ninh cho đến Châu Đốc, thì những ai cấp Úy, học tập trong Nam như Cà Tum, Bù Gia Mập … chưa chắc đã được về sớm hơn ba năm.
Tôi nói tôi được về sớm và được bảo lãnh, chuyện ấy như sau: Hồi đi học, tôi bị ảnh hưởng của Luật sư Phạm Tứ Cầu, ông ta dạy về Kinh tế học, bài giảng ông ta dùng bút Bic, tựa viết màu đỏ, mục viết màu xanh lá cây, tiểu mục màu đen và những dòng chữ thường viết màu xanh dương, nghe nói đi học 10 ngày, tôi cũng đem theo sổ, bút Bic xanh đỏ, vào Trãng Lớn mấy anh thấy vậy bầu tôi làm Thư ký Trung đội để ghi chép Lý Lịch Trích Ngang, ghi chép học tập …
Đến khi lên Cà Tum, anh Đội Trưởng của tôi ở Trãng Lớn được Trại chỉ định làm Khối Trưởng, sau đó có một anh B Trưởng có giấy chứng nhận bị Hủi, nên Trại cho ra về chữa bệnh, tôi bị Trại chỉ định làm B Trưởng thay anh ấy, chắc chắn là do anh Khối Trưởng đề nghị. Làm B Trưởng thì cũng làm mọi việc giống như anh Trại viên, mỗi ngày cũng cuốc đất trồng khoai, trồng đậu, vào rừng đốn tre, cắt tranh lợp nhà … nhưng thêm việc, phải báo cáo công tác đã hoàn tất trong ngày, nhận công tác từ Trại giao xuống rồi phân công cho anh em, làm sao cho công bằng thì được anh em thương, còn “thượng đội, hạ đạp” lợi cho mình, hại cho anh em, chẳng ai kiêng nễ. Tôi cứ thẳng thừng mà làm, làm thì hùng hục cho được việc. Bởi vì tôi nhớ hồi thụ huấn ở quân trường Thủ đức, khóa tôi là khóa khá đặc biệt, nhiều giáo viên, công chức bị động viên đi khóa này. Trung đội tôi có Bửu Đào, Trưởng Ty Công Chánh Đà Nẳng, anh Tòng giáo sư Trường Sư Phạm Vĩnh Long và nhiều giáo viên khác, có anh Nhân, anh Còn giáo viên quê ở Cần Giuộc, anh Nhân là bạn học của Trung Úy Nguyễn Văn Thiệu, Trung đội Trưởng của chúng tôi.
Một hôm ở vọng gác 13 bis, Trung Uý Thiệu uống vài ngụm bia rồi cười nói to với anh Nhân, cũng để cho mọi người cùng nghe:
- Đ. M. mấy thằng cha thầy giáo, ngoài chuyện dạy học không biết làm chuyện gì hết !
Tôi ở nhà quê, năm 13 tuổi mới lên tỉnh học, vậy mà tôi chưa hề biết cầm cày, đi bừa, chưa hề biết chăn bò, mọi thứ có mẹ tôi, cô tôi, chị tôi, anh tôi làm tất cả. Suy lời Trung Úy Thiệu nói, đối chiếu với bản thân mình, đúng là ngoài đi dạy tôi không còn biết làm cái chi hết. Vã lại, trước kia làm Thầy giáo hay cô giáo nhà có kẻ ăn người ở. Thầy không đụng tới móng tay, Cô không cần vào bếp núc. Cho nên trong Trại tôi quyết làm cho được mọi việc, để sau này ra về dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa nếu không tìm được việc làm bằng trí óc, thì cũng sống được với đôi bàn tay và sức lực của mình. Cho nên trong Trại anh em còn đặt cho tôi biệt danh “Bê-tông”.
Lúc tôi ở Cà Tum được nửa năm, có một Trại khác giải tán, họ phân bổ về Trung đội tôi một anh bệnh nằm liệt giường, hàng ngày tôi đến bên giường hỏi thăm bệnh tình của anh, để báo cáo có người bệnh, chỉ tiêu được bớt đi. Tôi nhớ rõ, anh đó là Vũ Hữu Thuận, bệnh chừng ba tháng sau mới khỏi hẳn, sau khi lành bệnh, một hôm anh ta tâm sự với tôi:
- Anh tôi mới nói cho biết, Ba tôi vốn là Sư Trưởng của Sư Đoàn này, nay đã về hưu nhưng còn làm công tác Đảng ở Hà Nội, vài tháng trước Ba tôi có vào Trại thăm tôi, kêu tôi lên Trung Đoàn ngủ với Ba tôi một đêm. Ba tôi đã lãnh tôi về, bây giờ còn chờ giấy tờ, nhưng Ba tôi không thể ở đây lâu, nên đã về Hà Nội. Trước khi về, Ba tôi đưa cô Fiancé của tôi lên Đoàn 500 ở thành Ông Năm, giới thiệu với họ để nhắc nhở lo cho tôi mau về. Vậy anh muốn về sớm, anh nói với người nhà xin cho anh cái giấy đi Vùng Kinh Tế Mới hay Hồi Hương Lập Nghiệp, có giấy đó, người nhà anh đưa cho cô Fiancé của tôi lo dùm cho, còn tôi, tôi sẽ gửi thư dặn cô Fiancé của tôi ráng giúp dùm anh.
Do vậy, người nhà tôi đã làm giấy bảo lãnh cho tôi “Hồi Hương Lập Nghiệp” ở xã Phú Hòa Huyện Châu Thành Tỉnh Long Xuyên, cô Fiancé của Vũ Hữu Thuận đã giúp tôi, nên tôi được cho về y theo địa chỉ trên. Ra Trại, tôi tìm đến nhà Vũ Hữu Thuận ở đường Nguyễn Duy Dương, Chợ Lớn, người nhà cho biết anh đã vượt biên rồi. Đến thăm, cô fiancé của anh Thuận ở Lý Thái Tổ, cô là người thi ân bất cầu báo. Đó là trường hợp tôi được bảo lãnh về sớm, sau đó Trại Cà Tum bị Pôn Pốt đe dọa tấn công, Trại phải chuyển về Thành Ông Năm Hóc Môn, Trại viên được đi phép, rồi cũng được tha về chẳng bao lâu sau đó. Cho đến nay ba mươi năm qua rồi, tôi vẫn chưa gặp lại Vũ Hữu Thuận, chưa gặp lại bạn tù xưa để hỏi thăm Thuận, mong gặp anh để nói một lời cám ơn.
Tôi không biết do đâu mà Nhạc gia tôi quen biết ông Lâm Tấn Lộc, Chánh văn phòng Sở Lao Động thành phố Hồ Chí Minh, tôi điền một lá Đơn Xin Việc Làm, Một Phiếu Lý Lịch, đưa cho ông nhạc tôi, vài hôm sau tôi nhận được giấy báo của Sở Lao Động gọi đi làm, tính ra từ khi ra Trại, đến khi tôi đi làm việc chỉ có 28 ngày.
Sau khi tôi đi làm một tuần, tôi không thấy ký kết giấy tờ gì, tôi vào phòng ông Lộc hỏi ông ta:
- Thưa Bác! Cháu đã đi làm một tuần mà không thấy có Hợp Đồng hay giấy tờ chi cả, những người khác đi làm đều có ký Hợp Đồng, cháu thắc mắc nên xin phép hỏi Bác.
Ông Lộc cười trả lời với tôi:
- Cháu biết không ? Người nào đi làm cũng phải ký Hợp Đồng để đem tới Sở Lao Động duyệt trong kế hoạch đã phân bổ, bây giờ cháu đã làm ngay tại sở Lao Động rồi, đâu cần lo chi, rồi nay mai văn phòng sẽ làm Hợp Đồng, đừng lo gì hết nghe.
Tuy ông Lộc nói vậy nhưng cả tuần sau, ông Phó văn phòng mới đem Hợp Đồng đưa cho tôi ký, chức danh Kỷ sư Cơ khí, lương tháng 63 đồng. phụ cấp mỗi đứa con là 5 đồng.
Tôi đi làm được 10 ngày hay nửa tháng, nhạc gia tôi mời ông Lâm Tấn Lộc, Kiến Trúc Sư Nguyễn Hữu Thiện đi ăn cơm chiều, ở quán ăn ngay bùng binh trước rạp hát Khải Hoàn, chợ Thái Bình, kiến trúc sư Thiện là Kiến Trúc sư trưởng thiết kế Thư Viện Quốc Gia, ông với kế mẫu của nhà tôi là anh em chú bác, cả hai đều có bà con gần với Lê Quang Chánh, Phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố, nên kiến trúc sư Thiện lúc đó là Phó Giám Đốc Sở Xây Dựng, kts Thiện và ông Lộc có bà con hay quen biết, nên kts Thiện tránh nhận tôi có liên hệ thân tộc, nhờ ông Lộc đưa tôi vào làm ở Sở Lao Động
Sau đó, năm 1978, Trung Quốc đánh 6 tỉnh phía Bắc, các cán bộ người Hoa hay có họ hàng gốc Hoa đều bị cho nghỉ hưu, Sở Lao Động có Giám Đốc Lâm Văn Sáu, Phó Giám Đốc Tư Kiên (người Hoa), Lâm Tấn Lộc đều được nghỉ hưu, cuối năm Bà Sáu Chương, người thuộc cục R làm Trưởng phòng tổ chức, chuyển tôi về Sở Công nghiệp.
Năm 1982, tôi làm Trưởng Phòng Công Nghệ của Phân Viện Thiết Kế thuộc Sở Công Nghiệp, một hôm ban Giám Đốc Sở mời tôi lên làm việc, trong buổi họp đó do Giám Đốc Lê Thành Phụng chủ tọa, có Đào Anh Vũ, Phạm Văn Bình Phó Giám Đốc, có các Trưởng Phòng Tổ Chức và Đào tạo, Kế Hoạch và Phân Viện Trưởng của tôi cùng họp, sau khi Giám Đốc Sở nói qua việc cần chấn chỉnh Trường thuộc Sở, yêu cầu tôi về đó đảm nhận chức vụ Hiệu Trưởng một thời gian. Ngay sau đó, Giám Đốc Sở hỏi tôi có ý kiến chi không ? Tôi đáp :
- Sở đã yêu cầu thì tôi thi hành, tôi xin cố gắng sắp xếp việc Trường ổn định trong 6 tháng đến một năm, sau đó cho tôi chuyển về lại Phân Viện Thiết Kế như cũ.
Giám Đốc Sở, thường được gọi là Sáu Phụng, cười và nói:
- Cũng như nàng Kiều, sau bao nhiêu năm lưu lạc, nay trở lại chốn cũ, người xưa, có khi anh lại xin ở luôn đó không chừng.
Sau buổi họp, trở về Phân Viện, Phân Viện Trưởng là người Bến Tre, xứ Đồng khởi, theo cha tập kết ra Bắc, có đi du học ở Liên Xô. Tuy không nói ra nhưng anh ta rất thích thu nhận những người Học Tập Cải Tạo như chúng tôi làm việc cho cơ quan anh, anh ta nói với tôi:
- Anh cũng biết, anh Sáu Phụng muốn anh xuống làm việc cho Trường, tôi muốn giữ anh lại cũng khó, tôi cũng muốn dĩ hòa vi quí, anh cứ đi một thời gian, tôi hứa sẽ kéo anh về sau.
Hôm sau, tôi tới Trường bên ngoài là để thăm bạn bè, bên trong tôi đi tìm hiểu tình hình, ông Nguyễn Hữu Quang làm Hiệu Trưởng, có vấn đề chi đó gây mâu thuẩn trong Ban Giám Đốc, ông Hiệu Phó Nguyễn Văn Được tố cáo với Sở. Thế là ông Quang và Được đều bị về hưu, ông Tài, ông Phấn đã nghỉ việc, Trường vẫn còn ông Phan Kim Báu, nguyên là Hiệu Trưởng, sao người ta không chọn ông Báu, lại chọn tôi vốn là một người Học Tập Cải Tạo ? Chắc chắn là ở Trường có người đề nghị tôi, cho đến giờ này tôi vẫn chưa hiểu là ai ?
Tôi có nói với Thầy Vũ Duy Thuận, Nguyễn Anh Dõng là tôi về Trường làm Hiệu Trưởng, ngoài ra những người khác tôi đều không nói việc này
Cuối cùng, thành phần Ban Giám Hiệu gồm có:
Quyền Hiệu Trưởng : Trần Minh Chánh (Bí Thư Chi Bộ)
Hiệu Phó Chuyên Môn: Huỳnh Ái Tông
Hiệu Phó Tổ chức và Chánh Trị : Vương Quốc Đạt.
Tôi không lấy làm lạ về việc Sáu Phụng đề cử tôi làm Hiệu Trưởng trước Ban Giám Đốc Sở, nay tôi chỉ là Hiệu Phó. Bởi vì một người “Ngụy quân, nguỵ quyền” không thể nào làm được Thủ Trưởng một cơ quan, bởi vì dù cho Sáu Phụng muốn, Sáu Vũ (Phó Giám Đốc, phụ trách Tổ chức) cố gắng cũng không thể vượt qua được Ban Tổ Chức Chánh Quyền Thành Phố. Tôi thì Hiệu Trưởng, Hiệu Phó hay Giáo Viên cũng thế thôi.
Giai đoạn đầu khi tôi về Trường rất vất vả, bởi vì ông Trần Minh Chánh cũng như Vương Quốc Đạt đều chưa có nhiều kinh nghiệm về giáo dục về tổ chức một Trường dạy nghề, thi tuyển thì có nhiều, rất nhiều thí sinh nhưng trường ốc, phương tiện hạn hẹp lấy vào một số ít học sinh cho nên tổ chức thi cử quả thật là chật vật, có những giáo viên trẻ, có những nhân viên ở Trường đã nhúng tay vào việc gian lận, tôi tả xông hữu đột, dẫu có bắt được gian lận nhưng tôi hiểu, số tôi không bắt được hay bị vuột khỏi tay không phải là không có.
Thông thường, tổ chức thi tuyển, khi nộp đơn, thí sinh kèm theo 2 tấm ảnh 4 X 6, một tấm Trường dán vào Phiếu báo danh, một tấm Trường dán vào một miếng bìa của Phòng thi, có ghi tên họ và số báo danh. Giám thị phòng thi có bổn phận nhận diện thí sinh qua thẻ học sinh có dán ảnh, phải giống với Phiếu báo danh, ảnh Phiếu báo danh phải giống với ảnh nhận diện trên tờ bìa của Phòng thi. Đó là để tránh trường hợp một người nộp đơn, một người khác thi dùm.
Năm đó, có một em thi đậu vào Trường, sau khi gọi nhập học, học sinh phải nộp ảnh để dán vào phiếu khám sức khỏe, ông Trần Văn Sáng báo cho tôi biết có một học sinh, ảnh bây giờ khác với ảnh đi thi, sau khi xem ảnh, tôi quyết chắc em học sinh này khác với em đi thi, có thể khi đi thi em thí sinh giả đã làm thẻ học sinh giả để ba tấm ảnh giống nhau, Giám thị không cách nào phát hiện được.
Biết chắc rằng em đó đã gian lận, tôi cho gọi em học sinh đó vào và nói với em đó:
- Bài của em làm được 8 điểm, tôi không hiểu vì sao bây giờ bài ấy bị mất, Trường không có bài lưu hồ sơ của em. Vậy bây giờ tôi đưa cho em bài của thí sinh 8 điểm và giấy thi đây, em ngồi chép y như vậy, để giáo sư chấm điểm sẽ ghi 8 điểm. chúng tôi lưu vào hồ sơ của em.
Thế là em đó nhận giấy thi, bài thi ngồi chép lại. Để cho em ấy chép xong, giao nộp lại cho tôi rồi, tôi mới mở hộc tủ bàn viết ra, lấy bài thi mang tên em ấy, cho em ấy xem và tôi nói cho em ấy biết;
- Nhà Trường phát hiện đây là trường hợp gian lận thi cử, bài thi không phải của em làm, nếu Trường làm ra lớn chuyện liên lụy tới người thi hộ em nữa. Vậy em về nhà mời phụ huynh em vào đây, để chúng tôi chỉ hướng cho gia đình em giải quyết việc này tốt đẹp, không ảnh hưởng tới tương lai của em.
Phụ Huynh của em đó tới Trường, tôi nói rõ việc thi cử gian lận, để tránh mọi chuyện không tốt xãy ra, tôi đề nghị phụ Huynh làm đơn xin cho con thôi học.
Việc này làm cho tôi nhớ lại năm 1974, cũng một vụ gian lận do Tầy Trần Văn Sáng phanh phui ra. Năm đó, Trường Kỹ Thuật Gia Định chuyển về một lớp Đệ Tam, Thầy Sáng kiểm soát thấy trong danh sách có một em nhỏ tuổi hơn tuổi quy định là một tuổi, mà em đó là học sinh của Trường Gia Định tức nhiên là em đó đã có thi vào, xem danh sách trúng tuyển năm đó, có tên của em học sinh đó, như vậy thí sinh nhỏ hơn một tuổi bắt buộc được Giám Đốc Nha Kỹ Thuật chấp thuận, và gửi Thông báo này cho nhà trường, chúng tôi xem xét không thấy có Thông báo chấp thuận miễn tuổi, tôi nghĩ có thể có sai sót, nên lên Nha xin xem hồ sơ miễn tuổi cho các thí sinh thi vào lớp 8 Trường Kỹ Thuật Gia định năm 1972, hoàn toàn không có tên miễn tuổi cho em đó khi thi tuyển. Trong tập hồ sơ của mỗi học sinh, đều có giấy khai sanh, văn bằng Tiểu Học. Chúng tôi suy luận rằng em học sinh đó có thi đậu vào học Trường Kỹ Thuật Gia Định với Khai sinh khác và bằng cấp khác, sau khi vào học ở Trường, gia đình em đó đã làm Khai sinh khác và bằng cấp khác nhờ Trường Kỹ Thuật Gia Định thay đổi hồ sơ.
Để giải quyết, tôi gọi em đó cho em biết rằng hồ sơ chuyển Trường của em giả mạo, vậy em mời phụ huynh đến, để chúng tôi hướng dẫn cách giải quyết. Hôm sau, có một giáo sư Trường Kỹ Thuật Gia Định đến gặp tôi, để nhờ tôi giúp đỡ trong trường hợp này, tôi nói cho giáo sư ấy biết, đây là một trường hợp gian lận có liên lụy đến Trường Kỹ Thuật Gia Định tráo hồ sơ, Hiệu Trưởng của một Trường Tiểu Học làm giả mạo Văn Bằng Tiểu Học, cách giải quyết của tôi là phụ huynh đến Trường làm đơn xin rút hồ sơ để xin học ở trường khác. Và chuyện này kết thúc ở hướng giải quyết đó.
Năm 1974, tôi làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Thị Tú Tài Kỹ Thuật Phần Hai kỳ hai, ngoài việc mang đề thi, tôi còn mang theo một Thông Báo của Nha Kỹ Thuật, yêu cầu Trường Kỹ Thuật Nha Trang tống đạt cho một học sinh của trường đã đậu khi thi kỳ một, nhưng Nha kiểm lại em học sinh đó đã bị đánh Rớt vì thiếu điểm, nay em học sinh đó phải dự thi kỳ hai. Nhà Trường làm Phiếu báo danh, làm Thông báo nhờ Đài Truyền Hình Nha Trang thông báo cho em đó biết để dự thi, và em đó đã có dự thi. Về sau, tôi không rõ kết quả thi kỳ 2 em đó đậu hay rớt, theo tôi chắc là Rớt, bởi vì em ấy đã thấy tên mình trên bảng vàng, nên đã nghỉ xả hơi, ai cũng vậy, đâu có cầm tới sách vở, làm sao nhớ được những công thức Toán, Lý, Hóa. Thi mà không được chuẩn bị thì cầm bằng cái rớt là chắc. Đáng trách các Giám khảo cộng điểm, đáng thương em học sinh kia, mừng hụt thật lớn! Con đường chiến binh đang chờ đón em trước mắt.
Do vô tình hay cố ý, nhưng Nha hậu kiểm dễ phát hiện, vì môn Kỹ Nghệ Họa hệ số 4, giả dụ thí sinh nào làm hoàn hảo, đạt điểm 20 nhân hệ số 4, em ấy chỉ được 80 điểm, đàng này em ấy có 84 điểm Kỹ Nghệ Họa, nhờ đó đủ điểm đậu, sau khi xem lại điểm thật môn Kỹ Nghệ Họa, nhân với hệ số rồi công các môn Toán, Lý, Hóa … em ấy không đủ điểm đậu, không đủ điểm vớt, đành phải gọi em ấy đến Trường thi lại.
Để tránh mọi chuyện không tốt đẹp có thể xảy ra, tôi yêu cầu tất cả giáo viên cũng như nhân viên của Trường có con, em ruột thi vào học, cứ để các em thi tự nhiên, dù cho các em bị KHÔNG điểm nhà Trường cũng cho phép theo học.
Ông Quang về hưu, để lại cho Trường một số học sinh hệ Trung Học, theo phân cấp quản lý, hệ này do Trung Ương hay nói khác hơn là do Bộ Giáo Dục quản lý, Trường mở không được Bộ chấp thuận. Việc đang giằng co để giải quyết tình trạng học sinh ra Trường. Ngoài việc tổ chức cho các em thi tốt nghiệp, tôi phải chạy lên chạy xuống Văn Phòng Bộ Giáo Dục ở phía Nam, đặt tại Toà Viện Trưởng Viện Đại Học Sàigòn cũ, ở “Hồ Con Rùa”, để xin được hợp thức hóa Văn Bằng tốt nghiệp Trung Học của các em. Cuối cùng Bộ chấp thuận, tôi phải đích thân tới đó, nộp Biên Bản Hội Đồng Thi, Nhận Văn Bằng Tốt Nghiệp, văn bằng giống y như Hộ Chiếu, bìa màu xanh lá cây, in chữ mạ vàng và quốc huy, tôi nhớ không chắc hình như tôi nhận 48 hay 49 văn bằng này.
Ông Lâm Văn Trân, trước 1975 là Tổng Giám Xưởng, sau này phụ trách về Xưởng, một đêm đi đường bị tai nạn rồi mất, trong tang lễ của ông Trân, tôi gặp lại Thầy Phấn đề nghị Thầy trở lại làm việc cho Trường, Thầy Phấn cho tôi biết là đề nghị của tôi đã quá trễ, đến giờ phút đó, tôi mới biết Thầy Phấn đã chuẩn bị một chuyến đi.
Ông Lâm Văn Trân mất, anh Trần Tứ Hải, giáo sư Trung Tâm Phan Đình Phùng cũ thay thế ông Trân từ đó.
Phòng Học Vụ trước kia Thầy Phấn đảm trách, nay tôi chọn ngồi đó, về Hoc Vụ thì giao cho Thầy Khưu Văn Triệu đảm trách Trưởng Phòng, có các Thầy Võ Văn Khéo là giáo viên ấn loát, Cô Tuyết, Cô Sảnh, phụ trách về Quản lý Học sinh có Thầy Trần Văn Sáng, anh Lâm Quang Trấn, anh Nguyễn Văn Thành.
Trường Nghiệp Vụ có cơ sở ở số 2 Cao Thắng và 2 phòng học ở một cao ốc đường Nguyễn Du, sáp nhập vào Trường Kỹ Thuật Công Nghiệp, có chị Hiệu Phó Nguyễn Thị Sáng, hai Trường được cải danh thành Trường Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Thành Phố Hồ Chí Minh.
Vào cuốn năm đó, ông Phan Kim Báu về hưu, sang năm sau, anh Võ Văn Khéo xin chuyển công tác sang Xí nghiệp Xuất Nhập Khẩu của Ba Toàn, sau này là Xí nghiệp Cầu Tre, anh Khưu Văn Triệu cũng chuyển công tác. Tôi đưa anh Nguyễn Trần Nghĩa, Bí Thư Chi Đoàn Trường lên làm Trưởng Phòng Giáo Vụ, anh Nghĩa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật, vợ là cô Loan, nhân viên của Trường, nguyên là học sinh Phan Đình Phùng, học sinh Phan Đình Phùng trước 1975, cô nào nhỏ nhất, trông khá xinh xắn, đó là cô Loan này.
Trong năm 1983, Sở Lao Động hướng dẫn sang Trường một phái đoàn Cao Ủy Tị Nạn của Liên Hiệp Quốc, họ muốn tìm hiểu về dạy nghề, về khả năng của Trường để huấn nghệ cho một số người Campuchea đang tị nạn Pon Pốt tại Việt Nam, nhưng cho đến khi tôi rời khỏi Trường, vẫn không nghe thấy gì về chuyện này.
Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11-1982, nhà Trường tổ chức long trọng như các Trường khác, mời các Thầy cũ đến Trường, đón các em cựu Học sinh trở về thăm Trường, một dịp để các em thăm lại Thầy, Cô. Ngày ấy Thầy, Cô giáo đến Trường dự lễ, vinh danh những Giáo viên tiên tiến, tất cả được nghỉ, không dạy lớp, được các em biếu quà, phụ Huynh cũng như cựu học sinh mời đi ăn. Một ngày vui của Nhà giáo, là một ngày thật ấm cúng cho những ai được học sinh cũ còn nhớ tới mình, đem tặng cho một món quà, một cành hoa hay một cây bút.
Anh Trần Văn Sáng về sau xin được một chân tài xế cho một công ty xuất khẩu.
Hình như trước khi tôi về Trường, dưới thời ông Nguyễn Hữu Quang làm Hiệu Trưởng, nhiều người xin chuyển công tác rất khó khăn, tôi nghĩ rằng, nếu ai không thích nghề dạy học, hay trong thời buổi khó khăn, tìm được chỗ lương hướng khá hơn, nên giúp đỡ họ.
Có những người đi, thì cũng có những giáo viên khác đến, chẳng hạn như từ Trường Đại Học Sư Phạm Thủ Đức phân bổ cho Trường có các giáo sư: Nguyễn Trần Nghĩa, Nguyễn Văn Chiến, Năng, Khải. Ở nơi khác chuyển đến như Cô Nga dạy điện, Cô Lan dạy Hóa, nghe đâu thân phụ cô Lan là một ông Tướng Cộng Sản, cô du học nước ngoài về, một giáo viên nữa dạy ở Xưởng Nguội hình như du học ở Đức về, Thầy Hưng dạy Kỹ Nghệ Họa ở Long Xuyên cũng được chuyển về Trường.
Trong thời gian tôi làm Hiệu Phó Chuyên Môn, có một Hội Nghị Chuyên Đề Về Giáo Dục Chuyên Nghiệp ở các tỉnh phía Nam, tổ chức tại Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, nói khác hơn là tổ chức tại Tòa Đô Chánh, tôi phải tham dự, trong Hội nghị này, tôi gặp một em cựu học sinh của Trường Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, nói như vậy có nghĩa là em đó học trước 1975.
Trường có hai anh em ruột cùng một tên, đó là Bùi Nghệ, người Quãng Nam, học sinh mang bảng tên màu đỏ, một gọi là Nghệ anh và một gọi là Nghệ em. Hình như hai em này từ đâu chuyển về chớ không phải thi vào Trường Nguyễn Trường Tộ, Nghệ anh học một thời gian rồi nghĩ học, hình như có lần tôi hỏi, Nghệ em cho biết vì gia cảnh khó khăn nên Nghệ anh nghỉ học về quê giúp gia đình. Nhưng sau này biết ra không phải vậy, em nghỉ vì hoạt động cho Cộng sản.
Gặp lại tôi trong Hội Nghị, Nghệ anh nói:
- Bây giờ em mới biết Thầy !
Tôi đoán em Nghệ hiểu lầm, tưởng rằng tôi cũng hoạt động Cộng sản như em, nên nay tôi mới được làm Hiệu Phó và tham dự Hội Nghị này.
Cũng trong Hội Nghị này, ban tổ chức đã đưa đi tham quan một trại cải tạo tù hình sự ở đồn Tống Lê Chân cũ, vào thăm láng trại của họ, tôi nhớ đến thân phận mình ngày trước, gợi tôi nhớ tới những bạn tù, những gian nan cùng khổ, đói ăn, rét mặc.
Gần hai năm ở Trường Kỹ Thuật Nghiệp Vụ Công Nghiệp, tôi luôn bị vằn vật, tự hỏi giáo dục rồi sẽ đi vê` đâu ? Có lần một Thầy giáo nói với tôi:
- Anh nghĩ coi, ai cũng muốn dạy cho học trò của mình giỏi tay nghề, hữu dụng cho xã hội, giáo dục hiện nay thì lúc nào cũng đặt ra thi đua, tiên tiến, nhưng mà đồng lương chết đói, người có lương tâm cũng không thể làm. Theo chỉ đạo, trong lớp, học sinh dở mình phải dạy, kèm cập cho nó giỏi, học sinh trung bình mình cũng phải dạy cho nó giỏi và học sinh giỏi mình cũng phải dạy cho nó giỏi hơn. Như vậy, học sinh cở nào mình cũng phải dạy thêm hết, làm cho tròn nhiệm vụ này mình cũng ráng làm được, nhưng ăn uống không đủ, làm xong một năm thì thì được thảnh thơi ra nghĩa địa mà nằm an dưỡng!
Cho nên, học sinh giỏi dở gì mình cũng cho điểm khá hết, để một là khỏi phải kềm cập dạy thêm, hai là đáp ứng được thi đua để đạt danh hiệu Thầy giỏi, Trò giỏi, tiên tiến, đều đều, nhưng thực chất không ra gì !
Có những giáo viên, tôi muốn động viên họ dạy tốt hơn, nhưng nhìn lại cái ăn, cái mặc, họ cũng như tôi bị ăn “bo bo” là một thứ cho ngựa, cho bò ăn, mà người ta khéo đặt cho nó cái tên “cao lương”, để con người đã bị hóa thành súc vật, ăn thức ăn của súc vật mà phải nói, phải nghĩ rằng tôi ăn “cao lương mỹ vị”. Cho nên tôi đành im lặng, cúi mặt làm ngơ.
Năm 1984, Phân viện tôi làm việc trước kia, nâng lên thành Công Ty, tôi được Giám Đốc xin về làm Trưởng Phòng Kinh Tế Kế Hoạch, tôi rời khỏi Trường lần này cũng như khi tôi đến lòng rất thanh thản, vì tôi không mong cầu, không được, không mất.
Người xưa có dạy “Nhân vô thập toàn”, tôi hy vọng, hai lần ở hai chế độ tôi không làm một điều chi có hại cho đồng nghiệp, nếu có vì vô ý, vô tư của tôi thì xin người trong cuộc tha thứ cho. Tôi nhớ có một lần họp cuối năm về phê bình và tự phê, một chi đồng nghiệp, phát biểu: “Có lúc, anh nói, anh xem chúng tôi như cháu Diệp của anh!”. Quả thật là tôi bị bất ngờ, cho tới nay tôi vẫn nghĩ đối với đồng nghiệp chưa bao giờ, tôi dám bất kính. Tại tôi hống hách hay là tại các chị Tuyết, chị Sảnh thấy sao nói vậy!? Thế thì lỗi ở tôi.
Về học sinh, nay các em đã nên người đã đến tuổi “Tri Thiên Mệnh”, chắc nhiều em, đôi lúc cũng nhớ lại những Thầy, Cô giáo của mình. Giáo dục của Á Đông chúng ta đề cao “Quân, Sư, Phụ”, trên có quân vương, thứ đến có Thầy, sau mới đến cha mẹ. Những câu học sinh nằm lòng như “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, về phong tục Tết nhất thì “Mồng một ngày Cha, mồng hai ngày Mẹ, mồng ba ngày Thầy”. Chưa hết đâu, còn nữa “Không Thầy đố mầy làm nên”, cho nên hồi nhỏ, sáu tuổi đi học lớp “Đồng Ấu”, làm lỗi, bị ông Thầy, bắt chúm 5 ngón tay lại, Thầy cầm cây thước bảng dài trên một thước, thẳng tay khẻ vào 5 đầu ngón tay, đau đến tận óc. Hai năm trước, tìm thăm Thầy dạy vở lòng cho tôi, Thầy ở Tân Quy Đông, gặp Thầy còn khỏe rất mừng, Thầy đã thọ, như tên Thọ của Thầy, đã ngoài 90, chuyện nhớ, chuyện quên nên cảm thấy buồn vì lần này Thầy còn đó, lần sau thăm Thầy có còn nữa hay không?
Dạy các em, tôi luôn luôn tìm cách để cho các em dễ hiểu, dễ nhớ để thực hành, nhưng điểm thì cho đến cuối đời, tôi không cho em nào quá 16 điểm, bởi vì tôi có quan niệm, cho điểm cao, các em tự mãn, không cố gắng thêm nữa.
Có một em học sinh tên là Hà Trọng Dũng, không hiểu vì cớ gì, tôi lại gọi đùa em ấy là Hà Bá, đáng lẽ tôi không nên gọi đùa như vậy. Những năm 1985 cho đến 1990 thỉnh thoảng tôi gặp Dũng, Thầy trò có dịp ngồi uống cà phê, nhắc lại chuyện xưa, lúc đó Dũng ở chung cư trong con hẽm, bên cạnh khách sạn Continental. Phía trước là Building Brink, nay Building này xây khách sạn Hyatt, không rõ em Hà Trọng Dũng còn ở đó hay không?
Một lần, trong giờ học, các em đang vẽ, tôi vô ý hỏi:
- Nhà em nào có chó đẻ không ?
Các em cười một cái rần! Tôi mới biết rằng mình lỡ lời, nên phải nói lại ngay:
- Tôi muốn hỏi nhà em nào có nuôi chó, có chó con, cho tôi xin một con về nuôi.
Sau khi Trường đã bị Ban Quân Quản Sàigòn-Gia Định tiếp thu, có người cho biết, tôi đã bị một em học sinh tố cáo về việc chi đó. Chuyện đó không làm tôi lo nghĩ chi hết, vì tôi biết mình không làm điều chi có hại cho Trường, cho Giáo sư, Nhân viên cũng như học sinh.
Năm 2007 về Việt Nam, tôi có đi thăm Thầy Khưu Văn Triệu, anh vẫn ở đường Võ Tánh cũ, nay là Nguyễn Trải, nói chung anh vẫn như xưa, nhưng theo anh cho biết, anh bị ung thư hàm mấy năm trước, phải chữa xạ trị, lúc tôi đến thăm thì việc chữa trị đã xong, mỗi ngày anh vẫn đi làm một buổi, anh đang tập sự cho một người để về hưu. Anh gợi cho tôi nhớ tới những ngày đầu sau 1975, Trường đã đặt dưới quyền của Quân Quản. Một đêm đi trực gác, có Tư Quỳnh, chị cán bộ R tiếp quản Trường, anh với tôi và một bộ đội bảo vệ, cùng ăn bò né, trong bửa ăn, anh Triệu hỏi về quê quán anh bảo vệ, anh ta cho biết người Thủ Thừa, Long An, chỉ có vậy, nhưng hôm sau, cậu ta bị chuyển công tác và thay một cậu bảo vệ khác. Anh Triệu nói với tôi : "- Chỉ có vậy mà cũng bảo mật !", anh Triệu có người anh đi tập kết, nên anh được về sớm và làm việc lại tại Trường, cho đến khi tôi trở lại Trường, anh đuợc chuyển sang làm quản lý cho một khách sạn khu Nhà Thờ Cứu Thế.
*
Năm 2008, về Việt Nam, tôi có vào Trường nhưng không có ai quen ở đó cả, vì vào dịp Hè, có cô Thu thư ký ngày trước, cô cũng đi khỏi, tìm đến nhà Thầy Lê Đình Viện, nguyên là Hiệu Trưởng trường Nguyễn Trường Tộ để tìm chút tài liệu của Trường, người ta cho biết nhà Thầy đã đổi chủ, tìm đến khu cư xá giáo sư và nhân viên kỹ thuật ở gần cầu sắt, gặp được Thầy Lưu Minh Tuấn, nhà hai căn xây cao hai ba tầng lầu, trong phòng khách bày bộ xa long gỗ chạm trổ nệm đỏ chứng tỏ Thầy đang an hưởng tuổi già. Sang thăm nhà Thầy Phạm Mạnh Tùng, thầy đang chuẩn bị đi ăn sinh nhật của Thầy do vài giáo sư cũ mời, trong đó có Thầy Giảng Huệ Thắng, Thầy Tùng có mời tôi cùng đi, tôi cũng muốn tới để gặp anh em cũ, nhưng trong người chưa khỏe sau khi nằm viện, tôi xin phép đi tìm Thầy Lê Đình Viện. Nhờ Thầy Tùng chỉ, tìm đến địa chỉ 282/68 Bùi Hữu Nghĩa, Phường 2 Quận Bình Thạnh, nhà cao hai ba tầng, cửa khóa kín, tôi đành ra về, tiếc đã bỏ công đi thăm, nhưng không gặp được Thầy.
Mấy hôm rồi, các em cựu học sinh Nguyễn Trường Tộ và Phan Đình Phùng có báo tin Thầy Trần Mạnh Du ở Mỹ về Việt Nam, tôi nhờ các em xin cho tôi địa chỉ và số Phone, các em gửi cho tôi số Phone của Du. Du với tôi đã từng ăn chung một mâm ngủ chung một sạp trong chốn cải tạo Trãng lớn hơn một năm. Nhớ lại, ngày mới đến Trãng lớn tôi nghĩ chỉ đi học tập 10 ngày như Thông cáo của Ủy Ban Quân Quản, nhưng đến nơi lại thấy họ sắp đặt hình như tính chuyện lâu dài! Trần Mạnh Du một hôm tâm sự với tôi: "- Khi ra đi, tôi đã nói với nhà tôi: 'Anh đi không hẹn ngày về!' ". Ra tù tôi có gặp Du một lần, tại nhà anh gần khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, mới đó mà nay cũng trên dưới 30 năm rồi chưa gặp lại !
Mọi chuyện rồi cũng qua đi, chuyện vui, chuyện buồn gây cho chúng ta ít nhiều xúc cảm. nhưng nếu Ta có làm lỗi với Người thì nên xin lỗi cho mọi Người cùng ta vui vẻ, Người làm lỗi với Ta, Ta tha thứ hết. Được như vậy, đời sống của chúng ta mang nhiều ý nghĩa, người người được an vui, ấm lòng, tăng thêm tuổi thọ.
Lou. 1-2-2009
1-3-2009